Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2014

Cò hồn xã nghĩa 53 + 54

Tiểu thuyết Cò hồn Xã nghĩa 53 + 54.


Phạm Thành
53.
Tôi thỉnh thoảng cũng nhớ anh Đoàn.
Lần anh về Mynga cưới chị cả tôi và chúc mừng sự kiện anh sinh con trai, anh lại phóng xe đi. Tuy thỉnh thoảng anh có về nước với rất nhiều hàng hóa, nhưng anh không nhờ người gọi tôi đến gặp anh lần nào nữa. Có lẽ vì thế mà tôi vẫn âm ỉ nhớ anh, nhất là khi ngồi trong nhà vệ sinh để tống cựu[1].
Tin Sách Tiếng Quê Hương giới thiệu tiểu thuyết Cò hồn Xã nghĩa và sơ lược tiểu sử Phạm Thành.
Tin Sách Tiếng Quê Hương giới thiệu tiểu thuyết Cò hồn Xã nghĩa và sơ lược tiểu sử Phạm Thành.

Tôi cầu mong cho anh nhanh nhanh đem cái Máy mưu sinh vạn năng về để dân Mynga tôi bớt đói, bớt khổ, để cứt chó, cứt bò rơi rụng bên đường cũng được tận dụng, một là để làm thức ăn, hai là làng nước cũng được sạch sẽ như lau như li, thoáng mát.
Tôi cứ thường xuyên mơ rằng, giá như dân Mynga tôi có được vài ba chục cái Máy mưu sinh vạn năng như anh Đoàn mô tả thì hay biết bao.
Có nó, nhất định dân Mynga tôi no đủ, khỏi phải chân lấm tay bùn, quanh năm đầu tắt, mặt tối, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời[2] mà vẫn không đủ ăn.
Có nó, nhất định luận thuyết làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầucủa cụ Mác, An ghen, cụ Lê-nin sẽ thành hiện thực.
Có nó nhất định con đường xây dựng chế độ Cò hồn Xã nghĩa ở My nga sẽ thành công rực rỡ.
Bởi vậy, dù anh Đoàn có là kẻ dị nhân, biết uống xăng như uống rượu, hoặc đem máy cày Xô Liên, Quốc Cộng về rồi biến chúng thành cái mả tổ của chủ trương làm ăn lớn của đảng ta giữa cánh đồng, người dân Mynga vẫn cứ thấp thỏm đợi một ngày đẹp trời nào đó, anh Đoàn đem Máy mưu sinh vạn năng về. Nếu anh không đem cái máy đó về, tôi thực sự tiếc cho con đường hạnh phúc của dân Mynga đã đành, mà anh Đoàn nhất định còn bị mang tiếng là khoác lác, cha anh sẽ bị lịch sử đóng đinh như một kẻ lừa dối nhân dân, và cái vị trí kế tục sự nghiệp của cha anh – Hò Văn Đản – gây dựng sẽ có phần khó cho anh.
Mong là vậy, nhưng thực lòng tôi vẫn thấy nó ghê ghê, nhất là khi nhớ tới chuyện năm Một chín bốn lăm, người đói phải đun phân trẻ con còn bú sữa lên ăn và những khi ngồi trong nhà xí, thấy phân mình tống ra thường xuyên bốc mùi nồng nặc – thối.
Chẳng biết Máy mưu sinh vạn năng của Quốc Cộng, Xô Liên khi vận hành có bốc mùi như hố xí của quê tôi trong ngày mưa hoặc nắng hay không? Nhưng từ hố xí đến cái Máy mưu sinh vạn năng đến con đường tiến lên Xã nghĩa có cái gì đó giông giống nhau quá. Nó không những nặng mùi hôi thối của cứt mà nó còn sục mùi máu xương tanh tưởi trên cái miệng của giống người.
Tôi hát cho bạn nghe một đoạn nhé, kẻo không bạn lại bảo tôi bịa:
Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước…
Đường vinh quang xây xác quân thù…
Tiến mau ra sa trường[3]
Hồn của lá cờ là máu, hồn của dân tộc ẩn trong lá cờ ấy là máu.
Máu gì đây?
Máu người.
Con đường chúng ta đi lên là con đường của máu và xác người. Hành động là giết người.
Tiên chỉ chưa???
Định mệnh chưa????
Kỳ dị chưa???
Sao vậy cà???
Tiến lên hạnh phúc, ấm nó, yên vui không tiến lại chỉ tiến ra nơi sa trường máu lửa, vậy cà? Tôi phản đối. Cầm súng giết người là việc bắt buộc. Dù dân tộc Mynga tồn tại được là do máu xương của các thế hệ con người mà nên, thì mục đích tiến lên của dân tộc cũng không thể là sa trường, xương máu.
Nó cần phải loại bỏ máu xương. Không thể lấy ác để diệt ác. Càng không thể nhân danh lương thiện cổ vũ cho các ác. Bởi cái sự vậtlương thiện không bao giờ hàm chứa cái ác. Nó giống như dùng độc tài để dạy con người biết tự do vì tự do không bao giờ có chỗ cho độc tài.
Bởi, một khi cái ác thành niềm tự hào, thành vinh quanh ai ai cũng muốn có thì cái dân tộc đó đang bị lại giống, đang từ từ hành quân về với động vật, về với miền hoang dã chứ không thể có kết cục vinh quang hay sáng ngời nào khác.
Nguy hại hơn, cổ vũ cho những lời vinh quang định mệnh sặc mùi chết chóc này, lại là một điệu nhạc thật quyến rủ.
Tiết tấu có đoạn dồn dập, thúc dục dân nước Mynga mắm môi, trợn mắt hét lên một cách oai hùng; có đoạn ngân nga, buông thả mà du dương, da diết. ….
Phải chăng, ông Cao Văn thiên tài biết trước chế độ của Hò Văn Đản là chế độ máu nên ông mới tặng cho Hò Văn Đản một Quốc ca định mệnh như vậy? Để rồi từ đó, nó như cái máy cái sinh đẻ ra vô vàn các loại máy con với sức huỷ diệt  lớn hơn, tàn bạo kinh khiếp hơn cỗ máy cái nhiều lần.
Giết, giết nữa, bàn tay không ngưng nghỉ
Cho đồng lúa tốt, cho thuế thu mau
Cho đảng bền lâu, dập bước chung lòng
Thờ Hò Văn Đản, thờ Mao Trach Đông, thờ Stalin bất diệt.
Hoặc như:
Một hai ba bốn năm sáu bẩy tên lính thủy đánh bộ Mỹ kia, nó bỏ xác trong rừng[4].
Vân vân và vân vân.
Máu lạnh chưa? Sắt máu chưa?
Máu đã như thuốc bổ trui rèn, hun đúc ý chí sắt thép cho con người, để rồi con người xem con người như phân bón, để cho
lúa xanh đồng,
để cho
cho thuế thu mau,
 đế cho con người vui thích đếm người chết như đếm từng sợi dây đàn:
một , hai, ba, bốn, năm…”.
Cổ vũ, gắn huân chương cho việc giết người, từng bước biến con người thành cầm thú, nhất định là một Biện chứng, là một Khách quan trên con đường lại giống của dân tộc.
54.
Có chi tiết chưa chính xác là truyện ngắn, thực ra là tập truyện dài Hậu Chí Phèo"
Có chi tiết chưa chính xác là truyện ngắn, thực ra là tập truyện dài Hậu Chí Phèo” – P.Thành
Khi Hò Văn Đoàn xây nhà mới xong, chị cả tôi chưa kịp chuyển sang để ở thì xảy ra chuyện, bà Nụ, vợ kế Hò Văn Đản, đau bụng mấy ngày rồi chết.
Cái chết bất ngờ của bà vợ kế của ông ta làm dân Mynga xì xào bàn tán, cho rằng, Hò Văn Đản dùng thuốc sâu cho vào canh lừa cho vợ ăn, nên vợ ông ta mới tự nhiên đau bụng rồi chết như vậy.
Hò Văn Đản giết vợ kế, mục đích là để bịt đầu mối, để ông ta được tự do làm tình với gái góa, gái tân trong nước và đặc biệt là tự do ăn nằm với con dâu ông ta, tức chị cả nhà tôi, mà không bị bại lộ.
Tin này phát ra từ chính người vợ kế của Hò Văn Đản.
Vợ kế Hò Văn Đản kể với nhiều người rằng, nhiều đêm, cứ vào khoảng bốn giờ sáng, bà đến giường nằm của Hò Văn Đản, dùng tay xua xua trên giường, thì không thấy ông ta đâu, đến xem phòng con dâu thì cửa đã khóa chặt. Gọi mãi không thấy ai thưa lại, đến khi bà vợ kế ông ta dọa:
“Nếu ông không ra thì tôi la làng, la nước to lên bây giờ”, ông ấy mới mở cửa ra”.
Vợ kế ông ta còn khảng định:
“Có rất nhiều đêm như vậy”.
Bà ta còn bô bô kết luận:
“Ông ta không vào ngủ với con dâu thì vào phòng nó làm gì mà lâu thế? Không chừng thằng Đội là con của ông ấy. Thằng Đoàn không thể có con”.
Mặc dù vợ ông ta nói với nhiều người như vậy, nhưng chả ai dám hỏi thẳng ông ta xem hư thực thế nào?
Một thời gian sau, thấy vợ kế ông ta chết, nên nhiều người mới tin chuyện vợ kế ông ta nói, chuyện đêm đêm ông ta mò vào ngủ với con dâu, có thể đó là sự thật.
Khi anh Đoàn về nhà để chịu tang thì mẹ kế anh đã chôn được cả tuần rồi. Anh Đoàn có nghe dân nước bàn tán chuyện này, nhưng anh tự tin nói lại:
“Làm gì có chuyện đó”.
Mặc dù nói vậy, nhưng trong lòng anh cũng bán tín bán nghi. Nhưng anh nghi chỉ là để mà nghi. Anh Đoàn chẳng cách gì biết được cha anh có ăn nằm thật với vợ anh hay không? Thằng Đội có phải là con của anh hay không?
Vì nghi ngờ mà anh Đoàn quyết không sang Quốc Cộng, Xô Liên để học tập và tìm kiếm Máy mưu sinh vạn năng nữa. Anh quyết định ở hẳn Mynga và mở ngành hàng buôn bán đồ kim khí, máy móc, sắt thép. Anh giữ chức Tổng giám đốc.
Từ khi anh Đoàn ở hẳn lại nước Mynga, cứ thấy bụng chị cả tôi to to lên vài, ba tháng lại bị xẹp xuống.
Còn Hò Văn Đản, sau khi chị cả tôi ra ở riêng độ dăm tháng, ông ta rủ được một cô Ca ve bị vỡ hụi ở phố bên về ở cùng. Hai sự kiện trên làm cho phần nghi của anh Đoàn ngày một thêm chín.
Trước đây, anh Đoàn nghĩ cha anh đã luống tuổi thì đụ đị làm sao được nữa. Nay, vợ chết chưa đầy năm, con dâu ra ở riêng chưa đầy năm, cha anh đã kiếm con đàn bà khác về chung chạ, thì hẳn chuyện đêm đêm cha anh mò vào ngủ với vợ anh trong lúc anh vắng nhà là rất có khả năng.
Nhưng khả là khả vậy, anh Đoàn vẫn không có ý định làm rõ. Nhiều khi anh tặc lưỡi:
“Đằng nào thì chuyện cũng xảy ra rồi. Làm rõ, không những mình thêm nhục và cha mình cũng mất uy tín lãnh tụ. Người không có khả năng sinh con còn phải xin con, giống của người khác về nuôi. Đằng này, con mình mang huyết thống của nhà mình thì có gì mà không được?”
Người ta nói, đây là nét văn hóa Tây được anh Đoàn tiếp thụ và vận dụng vào hoàn cảnh của nhà anh, nước anh.
Anh Đoàn còn nói ra miệng:
Cái gì mắt không thấy thì tim không đau[5].
Cá trong ao nhà mình là cá của nhà mình[6].
*
Ngành buôn bán sắt thép của anh kiếm lời rất đậm.
Cả nước Mynga đến mua sắt thép của công ty anh như đi trảy hội.
Cứ tưởng anh có nhiều tiền, nhiều của thì được trời cho sống lâu để hưởng, nào ngờ anh lại lâm bệnh trọng.
Anh hay ho về đêm và thỉnh thoảng lên cơn sốt nhẹ vào các buổi chiều. Tệ nhất, muốn giảm ho, anh nhất định phải uống một vài ngụm xăng thì anh mới thấy giảm đau ở ngực.
Cứ mỗi lần ngực anh giảm đau, sau khi uống xăng, anh lại cáu gắt chị cả tôi rất quyết liệt
Vài bận anh bóng gió với chị cả tôi rằng:
“Thằng Đội kia là con thằng nào”.
Tất nhiên là chị cả tôi không trả lời.
Nhiều bận, thấy anh to tiếng quá, chị cả tôi cũng cáu lại:
“Nó là con của thằng chó, hỏi chi hỏi lắm”.
Nhùng nhằng to tiếng, cải cọ cả một tháng trời với anh Đoàn như vậy, bất ngờ chị cả tôi tìm đến cái chết trong một vụ tai nan giao thông rùng rợn. Vụ tai nạn làm thân thể chị cả tôi nát nhừ, đầu va vào thành xe vỡ tung óc, phọt ra trắng xóa cả mặt đường. Cậu Thắng nhà tôi là người chứng kiến đầu tiên đã không bao giờ quên những hình ảnh rùng rợn đó. Câu hay kể nó trong nước mắt:
“Cả nước có tưởng tượng được không? Buổi chiều hôm ấy, khi dắt trâu từ đồng về, tay cháu tôi buộc chặt vào cái thừng đang dắt trâu, đợi cho chiếc ô tô đến gần, cháu tôi quất trâu ra giữa đường, trâu sợ xe, lồng lên, chạy, kéo cháu tôi theo, đầu cháu tôi đập vào thành xe, vỡ toác ra như quả dưa hấu vỡ, chết. Máu tươi lênh láng, óc trắng phọt ra, cả nước ai  ai trông thấy cũng như sắp hóa điên cả lên. Cháu tôi biết mình có tội nên mới tìm cách tự tử kinh khiếp như vậy”.
Cái chết của chị cả tôi như một bản cáo trạng bằng máu, xương, tim, óc vạch trần bộ mặt gian dâm của Hò Văn Đản và sự bất lực sinh con của Hò Lê Đỗ Đoàn.
*
Sau khi chị cả tôi chết, Hò Văn Đản cho người lượm xác và dùng xẻng xúc, hốt những nhúm óc và tóc tai, thịt xương của chị cả tôi vung vải trên đường cái, rồi cho vào quan tài đem chôn.
Đám tang chẳng có mấy người đi theo.
Mẹ tôi cũng nhất định không cho bất kỳ ai trong nhà tôi đưa tang chị cả tôi ra nghĩa địa.
Mẹ tôi nói:
“Phận gái đi lấy chồng, thành ma nhà chồng rồi, sống, chết kệ cha nó”.
Mẹ tôi cấm thế, hắn là mẹ tôi còn rất giận chị cả tôi, vì mẹ cũng tin là chị cả tôi có quan hệ tình dục với bố chồng, tức Hò Văn Đản, nên mới tức giận mà cấm như thế.
“Như thế là loạn luân. Mẹ không muốn nhìn mặt nó nữa. Nó chết là phải kiếp lắm rồi. Nó xấu sa như thế, còn mặt mũi nào mà đưa với tiễn”.
Hai ngày, ba đêm sau khi chị cả tôi được chôn ở nghĩa địa.
Con trâu, xe tô tô, là hai thủ phạm trực tiếp giết chị cả tôi.
Xe ô tô vẫn còn lù lù nằm đó, tựa như cái máy cày anh Đoàn nằm chết trên cánh đồng, nhưng con trâu thì không, chẳng biết nó chạy biến đi đâu mất.
Trong cơn chấn động, người nhà Hò Văn Đản cũng không để ý đến nó.
Bất ngờ, ba ngày sau, tôi đem Nhật ký anh Đoàn trả cho chị cả tôi bằng cách đốt nó trước mộ chị, thật ngạc nhiên khi thấy cái mả chị cả tôi bị cào bới tung tóe và xung quanh đầy những bước chân trâu. Ngạc nhiên hơn, trong đám đất tung tóe đó, có bàn tay cùng một đoạn thừng đang còn buộc chặt trên cổ tay chị cả tôi. Có lẽ trâu tìm đến mồ chị tôi để trả lại bàn tay cho chị cả tôi.
Bàn tay nhỏ nhắn với những ngón tay thon búp măng của chị cả tôi giờ đây thâm sì và nó đã trương phềnh lên, to như những quả chuối mắn nhỏ.
Người nhà Hò Văn Đản lại phải cuốc mả ra, bật nắp quan tài ra, rồi xếp bàn tay chị cả tôi vào vị trí.
Tôi hiếng mắt quan sát thân thể chị cả tôi.
Thân thể chị chưa có gì khác lạ so với ba ngày trước.
Cái mặt cùng cái đầu vỡ toác của chị cả được quấn nhiều lớp vải vẫn chưa có dấu hiệu căng ra. Máu đọng trên vải liệm mới kịp chuyển sang màu đỏ thẩm. Chỉ có đôi bàn chân chị, dường như to lên và đổi sang màu xám xịt.
May nhờ có bò mà tôi nhìn mặt chị cả tôi thêm một lần nữa.
May nhờ có bò mà thân thể chị cả tôi đầy đủ, quy về một mối.
Tôi thắp hương cho chị cả tôi mà trong đầu cứ chộn rộn những hình ảnh về thời thanh xuân của chị. Đó là những ngày Hè chị cả tôi thường đem tôi ra sông Cầu Chày vừa tắm vừa mò cua, bắt hến cùng các bạn cùng trà lứa với chị.
Sông này, từ tháng Năm đến tháng Tám thanh niên trong nước thường đắm mình xuống đó. Những tháng mùa Hè, nóng thường gay gắt, đi chân trần trên đường đá sỏi không biết đi một cách khéo léo rất dễ bị bỏng chân.
Theo chị ra sông là một thói quen của tôi mà tôi không biết có tự khi nào.Và bao giờ cũng vậy, khi chị tôi ra đến sông thì dưới đó đã sẳn cả một bầy các chị. Người thì tắm, người thì lặn ngụp bắt hến, bắt ngao, trai, ốc. Chị cả tôi đến sông, chỉ một loáng là hòa bầy dưới sông cùng các chị.
Chị cả tôi cũng ngụp lặn dưới sông như những con vịt say mồi, lặn xuống, ngoi lên bắt từng con hến, con búng ném lên bờ cho tôi nhặt.
Chị cả tôi bắt tôi đứng trên bờ, vì tôi còn bé, lại sợ tôi ngâm nước cái đùi của tôi lại phát lên cái bắp chuối nữa thì nguy.
Mỗi lần chị cả tôi ném một con búng, hay con hến lên bờ, tôi lại như một con cò què vừa nhảy vừa lê chân đến nhặt. Nhặt xong lại đưa mắt nhìn ra chỗ các chị.
Tôi thấy, mỗi khi các chị lặn xuống, từ đáy sông từng cột nước đục hình đám khói bốc ngược lên, bay nghiêng nghiêng về phía hạ lưu. Tôi rất thích, cứ mỗi lần các chị ngoi lên, mắt còn đang nhắm, một tay ném con hến hay con búng lên bờ, một tay các chị vuốt ngược tóc về phía sau, làm nước chảy dầm dề trên mặt các chị.
Tôi cũng thích thú khi ngắm bầu vú của các chị, nó to và vàng vàng như quả bưởi. Tôi chỉ không thích và không hiểu vì sao các chị không cởi hẳn quần áo ra mà lặn. Nhiều khi, tôi ngồi trên bờ ngắm các chị mà muốn hô lên với các chị:
Vừng ơi, mở ra[7]
hoặc chí ít cũng muốn thấy khuy áo ngực của các chị bị sóng nước vỗ đi, vỗ lại mà bật ra. Thường, sau vài lần ngụt lặn, ngoi lên thế nào cúc áo của các chị cũng bật ra và tôi thích thú ngắm nhìn đôi bầu vú căng tròn trên ngực của các chị.
Nhưng cũng có hôm mỏi cả mắt mà chẳng nhìn được cặp vú nào, làm tôi cụt hứng, chán trường, nhạt nhẻo, đành tự cười trong ý nghĩ, rằng, “rồi vú của các chị cũng sẽ như vú của mẹ tôi: lòng thòng, nhão nhoẹt, bùng bèo, xơ xơ như quả mướp già mà thôi”.
Nay chị cả tôi không còn. Chị ra đi mà tiếng xấu còn lóng bóng ở lại trên cõi đời, làm mẹ tôi hay cáu kỉnh, phiền não. Vì vậy, tôi thắp hương cho chị mà trong đầu tôi cứ ong ong những câu hỏi về chị:
“Có đúng chị có quan hệ tình dục với Hò Văn Đản?
Có đúng là đêm đêm hắn vẫn mò vào với chị?
Chị có tự nguyện quan hệ tình dục với hắn không?
Hắn có lừa chị mà hiếp dâm chị?
Hắn làm tình với chị có giống Hò Lê Đỗ Đoàn làm tình với chị không?
Con của chị sinh ra có đúng là con của Hò Văn Đản?”
Bất ngờ, tai tôi nghe chị cả tôi trả lời:
“Làm thân con gái khổ lắm, em ơi!
Hắn cưỡng bức chị đấy.
Hắn cho chị uống thuốc mê, hắn mò vào ngủ với chị mà chị có biết gì đâu.
Đến khi chị biết thì sự đã rồi.
Hắn làm được một lần, rồi hắn quen.
Chị thì chuyện đã rồi, hắn ngủ một lần cũng giống như nhiều lần, có khác gì nhau.
Cái giống nhà nó chó lắm.
Hắn cứ thấy lồn là lồn, có phân biệt lồn đó là lồn của ai, thuộc quyền của ai đâu.
Hắn coi lồn của con nó, cũng giống như lồn của nó.
Hắn chó lắm em ơi.
Chị đã nhiều lần van xin nó thôi đi, nhưng nó không những không thôi mà cứ khi chị ở nhà một mình là nó tìm mọi cách đè chị ra, làm hùng hục như trâu, như ngựa. Chị chẳng thể chống lại”.
“Nhưng sao chị lại chết?”, tôi tiếp tục hỏi thêm chị cả tôi.
“Xấu hổ chứ làm sao. Chị biết anh Đoàn bị bệnh nan y, thế nào cũng chết trước hắn. Nếu chị không chết trước đi, thế nào nó chẳng mò đến để tiếp tục hiếp chị. Chị chết trước con hắn cho hắn biết mặt, cũng là bảo toàn danh dự làm ngươì của chị. Không thể cứ cắn răng chịu nhục với nó mãi được. Chị thú nhận tội lỗi với em, em giữ kín cho chị nhé”.
Tôi tin lời chị cả tôi.
Vọng
Từ trong hầm mộ bác Hà Độ ngồi bật dậy, mắng ào ào vào mặt tôi:
“Thằng cháu đừng kể chuyện khốn nạn đó nữa. Đau thêm lòng cha mày. Cái lồn chột và cái cặc thúi, tích chuyện của cha mẹ nó di truyền lại cho nó mà nó trở nên bệnh hoạn, đểu cáng như vậy. Cái thằng ấy, tránh sao được quả báo. Lúc có chức, có quyền thì đểu như bò đực, ác như rắn, như rết, lúc nào cũng phồng mang trợn mắt quát nạt dân, tàn sát dân, chuyện đực cái lại vô luân thường đạo lý.
Bác Minh Quân hỏi:
“Chuyện vô luân thường đạo lý nào?”
Cậu Cao Công Thắng quay người, liếc nửa con mắt tỏ rõ sự kinh bỉ về phía bác Minh Quân, cho rằng bác Minh Quân là kẻ giả vờ, bụng không dám chứa sự thật:
“Cái lão ấy chả giết vợ, để tự do hiếp dân gái làng, để đêm đêm mò vào ngủ với con dâu cho dễ dàng, đến khi con dâu chết, tay ấy chả lấy thêm một cô vợ khác, cái con Ca ve ở  phố bên, cạnh phố hắn ở”.
Không thấy cha tôi hưởng ứng gì, nằm im như một xác chết, bác Minh Quân mới vừa thở than, vừa khảng định:
“Chuyện lão ta cho thuốc sâu vào canh lừa vợ hắn ăn rồi vợ hắn sùi bọt mét ra mà chết là có thật. Hồ sơ còn nằm ở Bệnh viện Mynga ta. Tôi quản lý hồ sơ vụ này. Lão ấy sợ vợ già làm toáng chuyện đêm đêm lão ấy mò vào ngủ với con dâu nên lão ấy nhất định phải giết đi để bịt đầu mối. Đứa con, tên là Đội, giấy khai sinh cha là Hạt giống đỏ Hò Lê Đỗ Đoàn, nhưng thực ra cha nó là của Cục đá đỏ  Hò Văn Đản. Hạt giống đỏ có biết chuyện này, nhưng không dám tố cáo, vì đứa cưỡng hiếp vợ Hạt giống đỏ lại chính là Cục đá đỏ cha đẻ của Hạt giống đỏ. Cái bọn loạn luân, đáng số. Lão ấy sống lâu hơn người khác là để chịu trời đày, trời hành đấy”.
Cậu Cao Công Thắng sừng sộ:
“Rõ như thế. Rõ như thế mà ông cứ vờ vịt, ém nhẹm thông tin. Hồi báo chí Cần làm ngay điều tra vụ việc, sao ông không tố cáo? Lại còn giả điếc giả câm, coi như không biết gì. Ông không biết đau lòng hay sao? Vì chuyện loạn luân của Hò Văn Đản mà cháu tôi đã chọn một cái chết kinh khủng, rợn người”.
Bác Hà Độ lại hỏi:
“Dân Mynga có ai là không biết chuyện này?”
Cậu Cao Công Thắng:
“Đứa chó nào mà chả biết. Đám đồng chí thuộc hạ của hắn cũng biết. Hạt giống đỏ cũng biết, nhưng để giấu diếm chúng cứ muối mặt làm ngơ. Dân Mynga đồng mắt biết. Hạt giống đỏ có lần định lái xe tông chết cháu tôi, nhưng hắn không làm được. Hắn cứ hay thầm ước ao có một người nào đó giúp hắn giết chết cháu tôi. Hắn nung nấu ý nghĩ đó trong đầu hắn nhiều ngày đêm. Nhưng nhờ ai thì hắn chưa nhờ. Đến khi hắn bị ung thư phổi nằm đợi chết, không còn muốn nhờ bạn hắn tông chết cháu tôi nữa, thì cháu tôi lại tự chết. Cái chết của cháu tôi xảy ra đúng như ước muốn của hắn. Mà kỳ lạ là, người lái xe tông vào cháu tôi, cũng lại là một Hạt giống đỏkhác, cũng là bạn học tập, cũng là bạn được nước Mynga cử sang Quốc Cộng, Xô Liên săn tìm Máy mưu sinh vạn năng với hắn”.
Không thấy ai nói lại gì, cậu Cao Công Thắng lại tiếp:
“Thằng Đoàn, khi còn khỏe mạnh, hắn giống như cha hắn luôn mồm răn dạy nhân dân:
“Làm đếch gì có quả báo. Chết là hết, sống là còn. Nhân quả, tái thế, tái sinh, tái chế cái gì, ở đâu? Chẳng có trường Mác xít nào của Mynga, của Xô Liên, của Quốc Cộng dạy cái ní nuận như thế cả.”.
Nhưng khi thấy cháu tôi chết, đúng như ước muốn của hắn, thì Hạt giống đỏ có phần hoang mang. Cái nguyện ước sống lâu là tốt, sống là còn, chết là hết như không còn hằn trong đầu hắn nữa”.
Bác Minh Quân nói một cách ngu ngơ:
“Theo lý sự của các ông thì Hò Văn Đản là kẻ vô luân. Tôi thì tôi không cho như thế nếu các ông đồng ý với Hò Văn Đản coi bò là bạn của người. Cở sở giải phẩu con người là như thế này:
Vợ lão ta là con gái, con dâu lão ta cũng là con gái.
Tôi thấy giữa vợ lão ta và cô con dâu lão ta, chẳng khác nhau gì.
Họ cũng có vú tròn tròn, căng căng ở trên ngực, có đôi mông to to, cong cong trên đôi bắp đùi trắng trắng;
vú đó phải được sờ soạng, bướm đó cũng cần có đàn ông gieo tinh trùng vào thì bụng mới mang thai và to lên được.
Như trâu, như bò ấy. Khi trâu cái hứng lên, trâu đực cũng hứng lên theo. Khi chim bò đực cứng lên, bướm bò cái chảy ra cái nước nhờn, gặp nhau, có ai mà nín được.
Nước Mynga ta theo chế độ Cò hồn Xã nghĩa của Hò Văn Đản, lâu nay lấy trâu, bò, chó, lợn… làm giáo cụ trực quan cho con đường sinh sản nòi giống, thì đàn ông, đàn bà quan hệ với nhau như trâu, bò, chó, lợn… là chuyện bình thường.
Ai cho loạn luân thì trong nhận thức của người đó chưa thật sự chuyển biến.
Ai không cho loạn luân thì trong nhận thức của người đó đã thực sự có chuyển biến. Con người Xã nghĩa dưới chế độ Cò hồn của Hò Văn Đản và đám đồng chí của ông ta đã đưa dân Mynga thoát được tư tưởng tiểu nông, tự cung tự cấp, tiệm cận được tư tưởng sống cộng đồng, cộng sản: ăn chung, làm chung và vui vẻ chung.
Thằng Đoàn nhờ là Hạt giống đỏ được đi Tây, đi Tàu nhiều nên hắn đã thấm nhuần được tư tưởng này nên không coi chuyện cha hắn ngủ với vợ hắn là loạn luân.
Bằng chứng, thằng Đoàn là con lão Đản, mà thằng đó không nói cha hắn loạn luân với vợ hắn ta thì ai đảm bảo lão Đản loạn luân?
Hơn nữa, lọan luân là khái niệm có từ thời phong kiến kéo sang thời tư bản, mà bọn phong kiến, tư bản là kẻ thù của Cộng sản, đứa nào dám đem cái ngôn ngữ của bọn phong kiến ấy chụp mũ lên đầu nhà cách mạng hàng đầu của Mynga ta?
Ai dám nào?
Chẳng ai dám hết.
Bởi không có ai dám tố nên đến khi vợ thằng Đoàn đi ở chỗ khác, tay Đản không có ai là phụ nữ trong nhà nữa, để tình dục được tiếp tục, hắn ta lập tức dụ được một ả Ca ve vỡ hụi ở phố bên, tình nguyện đến ở với hắn.
Hắn lại vui thú như hồi thanh niên. Có ai làm gì được hắn đâu?”.

[1] Tục ngữ Việt Nam, nguyên văn: “ Tống cựu nghinh tân”.
[2] Thành ngữ Việt Nam
[3] Lời trong Quốc ca của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
[4] Lời trong bài hát “ Tiếng đàn ta lư” của nhạc sĩ Huy Thục
[5] Thành ngữ phương Tây.
[6] Thành ngữ Việt Nam.
[7] Câu thần chú trong truyện “Ngìn lẻ một đêm” của Ba Tư.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét